THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN NCS LÊ THỊ THANH
THÔNG TIN VỀ CÁC KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài luận án: Nghiên cứu đáp ứng kháng thể kháng SARS-CoV-2 trong quần thể người nhiễm và người tiếp xúc tại một số tỉnh miền Bắc và miền Trung Việt Nam, 2020-2021.
Chuyên ngành: Vi sinh vật học Mã số: 9 42 01 07
Họ và tên nghiên cứu sinh: Lê Thị Thanh Khóa đào tạo: K38
Họ và tên người hướng dẫn khoa học: 1. GS. TS. Lê Thị Quỳnh Mai
2. TS. Hoàng Vũ Mai Phương
Cơ sở đào tạo: Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương
Tóm tắt những kết luận mới của luận án:
1. Luận án cung cấp những thông tin đầu tiên về tình trạng đáp ứng kháng thể kháng SARS-CoV-2 của cộng động người Việt Nam trong giai đoạn dịch COVID-19 bùng phát năm 2020-2021. Theo kết quả nghiên cứu, kháng thể IgG kháng protein N được phát hiện trong 81,25% mẫu thu thập sau 10 ngày cókết quảRT-PCR dương tính, tỉ lệ này ở nhóm mẫu thu thập sau nhiễm 1-4 tháng là 82,70% và giảm còn 31,43% ở nhóm 7-8 tháng. Kháng thể kháng protein S tồn tại lâu hơn so với kháng thể kháng protein N: 95,73% và 91,43% mẫu có kháng thể kháng protein S sau nhiễm 1-4 tháng và 7-8 tháng.
2. Trong năm đầu của dịch COVID-19 (2020), tỉ lệ phát hiện kháng thể kháng SARS-CoV-2 trong các nhóm đối tượng nguy cơ nhiễm bệnh cao ở Việt Nam thấp hơn so với các nước khác. Điều này chứng tỏ các biện pháp kiểm soát dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam là phù hợp và hiệu quả trong điều kiện chưa có biện pháp dự phòng đặc hiệu là vắc xin COVID-19.
3. Kết quả luận án cho thấy liệu trình cơ bản gồm 2 mũi tiêm của 4 loại vắc xin có mặt trong nghiên cứu là phù hợp trong việc sinh kháng thể kháng SARS-CoV-2. Đáp ứng kháng thể (kháng protein S) sau tiêm vắc xin được ghi nhận sau 10 ngày tiêm mũi 1 và đạt tỉ lệ 100,00%sau 31 ngày tiêm đủ liệu trình. Vắc xin BBIBP-CorV (virút bất hoạt) có khả năng tạo kháng thể kháng protein N và S, tuy nhiên tỉ lệ dương tính của kháng thểkháng protein N thấp hơn kháng thể kháng protein S.
4. Áp dụng kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể kháng protein N làm xét nghiệm sàng lọc trược khi thực hiện kỹ thuật PRNT50 là phù hợp, đảm bảo tính chính xác và hạn chế chi phí và thời gian thực hiện nghiên cứu. Kháng thể trung hoà có thể được phát hiện trong 10 ngày đầu tiên sau nhiễm vi rút, hiệu giá kháng thể trung hoà đạt cao nhất tại thời điểm 26-55 ngày và giảm xuống bắt đầu từ ngày 78 sau realtimeRT-PCR dương tính.
5. Kết quả cho thấy có phản ứng chéo giữa các biến thể của vi rút trong phản ứng trung hoà, kết quả gợi ý có thể sử dụng phản ứng trung hoà để đánh giá hiệu qủa của vắc xin đối với sự tién hoá của SARS-CoV-2.
……………, ngày…..tháng…..năm 20…..
Đại diện người hướng dẫn | Nghiên cứu sinh |
INFORMATION ABOUT NEW FINDINGS OF THE PHD THESIS
Title:
Research on anti-SARS-CoV-2 antibody response in infected and exposed populations in some Northern and Central provinces of Vietnam, 2020-2021.
Specialization: Microbiology Code: 9 42 01 07
Name of PhD student: Le Thi Thanh
Supervisors: 1. Professor Le Thi Quynh Mai
2. Hoang Vu Mai Phuong,PhD.
Training Institution: National Institute of Hygiene and Epidemiology
SUMMARY OF NEW FINDINGS OF THE THESIS
1. This thesis provided the first insights into the anti-SARS-CoV-2 antibody response of the Vietnamese community during the COVID-19 outbreak that happened between 2020 and 2021. The research indicated that 81.25% of the samples collected 10 days after testing positive for realtime RT-PCR had IgG antibodies against SARS-CoV-2. However, this rate in group collected at 1-4 months was 82.70% and decreased to 31.43% in group at 7-8 months (after the initial testing). The research also found that antibodies to protein S remained in the system for longer compared to antibodies to protein N. Specifically, 95.73% and 91.43% of the samples had antibodies to protein S after 1-4 months and 7-8 months, respectively.
2. According to the results, the rate of anti-SARS-CoV-2 antibodies in high-risk groups in Vietnam was lower than in other countries during the first year of the COVID-19 pandemic (2020). This finding suggested that Vietnam's measures for controlling the pandemic are effective, even though vaccines were not yet available.
3. Based on the thesis results, it has been observed that administering two doses of COVID-19 vaccine out of the four different vaccines studied is effective in generating antibodies against SARS-CoV-2. The anti-S antibody response was identified 10 days after the first shot and reached its maximum after the completion of the full course vaccination, which takes 31 days. The BBIBP-CorV vaccine, an inactivated virus, stimulates the production of antibodies against both N and S proteins. However, the rate of anti-N protein antibody production was lower than that of anti-S protein antibody.
4. Using the N-protein antibody ELISA as a preliminary test before conducting the PRNT50 test was a suitable approach. This method guaranteed accuracy and helps to reduce the cost and time of the overall testing process. Neutralizing antibodies could be identified within the initial 10 days after contracting the virus, and their titer levels reach their peak between days 26 to 55. After day 78 of a positive RT-PCR test, the levels of neutralizing antibodies decreased.
5. The neutralization assay showed that the vaccine could provide protection against different variants of SARS-CoV-2 and track the evolution of viruses.
Supervisors | PhD student |
Tóm tắt luận án tiến sĩ của NCS Lê Thị Thanh:
Luận án của NCS Lê Thị Thanh: