Khám sàng lọc và kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho nữ giới

Nữ giới tuy tràn đầy sinh lực, nhưng hầu hết họ thường mất khá nhiều công sức cho việc chăm sóc gia đình và công việc. Mặt khác, rất nhiều phụ nữ quan tâm đến sắc đẹp và thời trang hơn sức khỏe của họ. Trong khi đó, việc khám sàng lọc có thể hỗ trợ phát hiện bệnh khi chưa có biểu hiện lâm sàng hoặc giai đoạn sớm của bệnh giúp cho việc điều trị hiệu quả hơn. Dưới đây là một số vấn đề chính cần kiểm tra và khám sàng lọc ở các độ tuổi khác nhau ở nữ giới:

Khám sàng lọc và kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho nữ giới 

Nữ giới tuy tràn đầy sinh lực, nhưng hầu hết họ thường mất khá nhiều công sức cho việc chăm sóc gia đình và công việc. Mặt khác, rất nhiều phụ nữ quan tâm đến sắc đẹp và thời trang hơn sức khỏe của họ. Trong khi đó, việc khám sàng lọc có thể hỗ trợ phát hiện bệnh khi chưa có biểu hiện lâm sàng hoặc giai đoạn sớm của bệnh giúp cho việc điều trị hiệu quả hơn. Dưới đây là một số vấn đề chính cần kiểm tra và khám sàng lọc ở các độ tuổi khác nhau ở nữ giới:

Từ 20 đến 39 tuổi                                                                                                                   - Ung thư cổ tử cung:   Từ 21 tuổi trở đi, cần làm phết tế bào cổ tử cung (Pap smear) 3 năm 1 lần. Từ 30 tuổi trở đi, chỉ cần làm phết tế bào cổ tử cung 5 năm 1 lần nếu bạn đã đồng thời làm xét nghiệm HPV. 
- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục: Nếu bạn chưa tới 25 tuổi và đã có quan hệ tình dục, hãy sàng lọc chlamydia và bệnh lậu mỗi năm 1 lần. Xét nghiệm HIV ít nhất 1 lần trong đời. 
- Huyết áp: Kiểm tra huyết áp ít nhất mỗi năm một lần. 
- Cholesterol. Nếu bạn bị huyết áp cao, tiền sử gia đình có bệnh tim hoặc các nguy cơ bệnh tim mach, cần xét nghiệm Cholesterol từ 25 tuổi. Bắt đầu từ tuổi 35, xét nghiệm cholesterol 3-5 năm 1 lần tuỳ kết quả. 
- Tiểu đường typ 2: Nếu bạn thừa cân béo phì, tiền sử gia đình có bệnh tiểu đường, huyết áp cao, cholesterol cao, cần làm xét nghiệm đường huyết khi đói và HbA1c, ít nhất 3 năm 1 lần 
Từ 40 đến 59 tuổi                 - Ung thư vú: Tất cả các phụ nữ nên bắt đầu sàng lọc ung thư vú bằng chụp nhũ ảnh (mammography) từ 50 tuổi. Tuy nhiên, nếu bạn có các yếu tố nguy cơ ung thư vú như có tiền sử gia đình mắc ung thư vú, bạn có thế bắt đầu kiểm tra bằng chụp nhũ ảnh từ 40 tuổi. Bạn nên kiểm tra 2 năm 1 lần, nếu bạn có ít nguy cơ bị ung thư vú, và kiểm tra 1 năm 1 lần nếu bạn thuộc nhóm nguy cơ cao. 
- Ung thư cổ tử cung: Tiếp tục làm phết tế bào cổ tử cung (Pap smear) 3 năm 1 lần. Từ 30 tuổi trở đi, chỉ cần làm phết tế bào cổ tử cung 5 năm 1 lần nếu bạn đã đồng thời làm xét nghiệm HPV. 
- Huyết áp: Kiểm tra ít nhất 2 năm 1 lần 
- Cholesterol. Nếu bạn không có nguy cơ bị bệnh tim mạch, bạn có thể kiểm tra choltesterol bắt đầu từ 45 tuổi và tiếp tục duy trì 3-5 năm 1 lần, tuỳ kết quả. 
- Tiểu đường typ 2: Nếu thừa cân béo phì, tiền sử gia đình có bệnh tiểu đường, huyết áp cao, cholesterol cao, cần làm xét nghiệm đường huyết khi đói và HbA1c, ít nhất 3 năm 1 lần. 
- Ung thư đại trực tràng: Khi bạn 50 tuổi, bạn cần nội soi đại trực tràng ít nhất 10 năm 1 lần, xét nghiệm phân mỗi năm 1 lần hoặc nội soi đại tràng sigma 5 năm 1 lần và xét nghiệm phân 3 năm 1 lần. 
Từ tuổi 60 trở đi - Ung thư vú: Tiếp tục duy trì chụp nhũ ảnh ít nhất 2 năm 1 lần và có thể dừng khi bạn 75 tuổi. 
- Ung thư cổ tử cung: Hầu hết phụ nữ có thể dừng xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung khi 65 tuổi, trừ khi có các bất thường trước đó. 
- Loãng xương: Bạn cần kiểm tra mật độ xương khi 65 tuổi và duy trì 2 đến 3 năm 1 lần. Nếu bạn có một số yếu tố nguy cơ như tiền sử gia đình, nhẹ cân, hút thuốc, bệnh tuyến giáp, mãn kinh sớm, tiền sử sử dụng corticoid, hoặc tiền sử gãy xương, bạn cóp thể kiểm tra sớm hơn. 
- Huyết áp: kiểm tra ít nhất 2 năm 1 lần 
- Cholesterol: duy trì xét nghiệm cholesterol 3-5 năm 1 lần.  
- Tiểu đường typ 2: Nếu thừa cân béo phì, tiền sử gia đình có bệnh tiểu đường, huyết áp cao, cholesterol cao, cần làm xét nghiệm đường huyết khi đói và HbA1c, ít nhất 3 năm 1 lần. 
- Ung thư đại trực tràng: Tiếp tục nội soi đại trực tràng ít nhất 10 năm 1 lần, xét nghiệm phân mỗi năm 1 lần hoặc hoặc nội soi đại tràng sigma 5 năm 1 lần và xét nghiệm phân 3 năm 1 lần. Tầm soát ung thư đại trực tràng có thể dừng khi 75 tuổi. 

(Tham khảo: Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ, Hội ung thư Hoa Kỳ)

 

 

 

 

 

 

 


Các bài viết liên quan